VATICAN:CH63-1b Sơ Lược Cuộc Đời của NGÔ ĐÌNH DIỆM (Nguyễn Mạnh Quang)

GIÁO HỘI LA MÃ:

LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC

– Nguyễn Mạnh Quang –

https://ift.tt/3nOcSvN

02 Nov, 2007

 

CHƯƠNG 63

NGÔ ĐÌNH DIỆM: CON NGƯỜI VÀ TỘI ÁC

1 2 3 4 5 6 7

 

II.- SƠ LƯỢC CUỘC ĐỜI CỦA NGÔ ĐÌNH DIỆM

Theo sử gia Vũ Ngự Chiêu, ông Ngô Đình Diệm “.”[i] 

Song thân của Ngô Đình Diệm là  Ngô Đình Khả và Phạm Thị
Thân.  Ngô Đình Khả có 6 người con trai là Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô
Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện và Ngô Đình Cẩn. Hai người con gái là bà
Ngô Thị Hoàng và Ngô Thị Hiệp (?).

Như đã trình bày ở trong chương sách nói về Nhóm Thiểu Số
Tín Đồ Da-tô (Mục XII, Phần IV) trước đây,  hầu hết tín Da-tô người Việt đều
hoặc là những hạng người tham lợi “”, hoặc là háo
danh và thèm khát quyền ”, hoặc là bị chèn
ép hay cưỡng bách phải theo đạo vì hôn nhân, không muốn mất người yêu hay hạnh
phúc gia đình bị tan vỡ, hoặc là những trẻ mồ côi trong đó có những đưa con rơi
của các ông giám mục và linh-mục. Chuyện con rơi của các hồng y, giám mục và
linh mục được sách Vicars of Christ ghi lại với nguyên văn như sau:

Nguyên văn: “One amazing statistic emerges: in a country of
900,000 people, there were 3,000 clergy; and yet two out of five bastards
were born to the clergy.”) [ii] .

Đoạn văn trên đây cho chúng ta biết “cứ 2 trong 5
(40%) đứa con hoang là con của các ông tu sĩ.” Không biết tại sao sử gia Peter
de Rosa lại gọi những đứa trẻ này là “con hoang” (bastards). Thiết nghĩ rằng
phải nên gọi chúng nó là “h” hay
là “” của Giáo Hội La Mã. Nói theo ngôn từ của Bà Hồ
Xuân Hương, thì “” này chính là những đàn cá ”
của các ngài ” mang đến thả vào ” của nữ tín đồ Da-tô.

Trở lại chuyện những người tân tòng mà Vatican gọi là
“những nguời mới trở lại đạo”, như đã nói ở trên, họ theo đạo chỉ vì danh vì
lợi,  hay vì bị cưỡng ép, chứ thực sự, chẳng có ai muốn theo cái “đạo bạo lực”
mà văn hào Voltaire gọi là “cái tôn giáo ác ôn” này làm chi! Giáo Hội La Mã và
các ông truyền giáo Da-tô cũng biết như vậy,  nhưng họ bất cần. Họ bất cần vì họ
tin rằng nếu đã theo đạo rồi, dù là bị dụ khị bởi những miếng mồi vật chất, danh
lợi, hay bị cưỡng ép vì hôn nhân, hay ở vào bất kỳ trường hợp nào, thì sớm hay
muộn, những người này cũng được nhào nặn thành những tín đồ Da-tô cuồng tín bằng
chính sách ngu dân và giáo nhồi sọ với nhiều phương pháp khác nhau được thi hành
song hành với nhau. Vấn đề này sẽ được trình bày đầy đủ trong Mục XXII với tựa
đề là Thi Hành Chính Sách Ngu Dân và Giáo Dục (của Giáo Hội La Mã) ở sau. Một
trong những phương pháp nhồi sọ này được nhà văn Da-tô Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại
với nguyên văn như sau:

“.”

[iii]


[iv] .

Ông Ngô Đình Khả và đàn con đàn cháu của ông ta cũng được
nhồi sọ theo cái phương cách trên đây của Giáo Hội La Mã.

Tới đây xin nói về thêm về ông Ngô Đình Khả, thân phụ của
ông Ngô Đình Diệm..

Ông Ngô Đình Khả sinh năm 1856 và là một tín đồ Da-tô đạo
gốc (có bố là Ngô Đình Niệm đã theo đạo). Năm 1870, ông được Giáo Hội La Mã gửi
đi  học làm nghề linh mục tại một chủng viện ở  Pénang. Thời gian theo học ở đây
là tám năm. Tám năm đèn sách để làm nghề linh mục, nhưng không biết tại sao ông
lại không thành công hay không muốn làm cái nghề khoác áo chùng đen để làm cha
thiên hạ. Năm 1778, ông  được cho về nước và sau đó ông được một linh mục người
Pháp đưa vào làm thông ngôn ở Huế. Vì hết lòng tận tụy với quan thày và được
quan thày tin tưởng, tháng 6 năm 1895, ông được cho làm phó tướng cùng vơi ông
Nguyễn Thân đem lính Việt Nam mà hầu hết là lính đạo (quân thập tự Việt Nam) đi
đánh phá và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Văn Thân dưới quyền lãnh đạo của cụ
Phan Đình Phùng ở Vụ Quang và Ngàn Trươi. Nghĩa quân Văn Thân vừa am hiểu địa
hình địa thế, vừa  quyết tâm chiến đấu, cho nên quân thập tự Việt Nam dưới quyền
của Nguyễn Văn Thân và Ngô Đình Khả bị tổn thất nặng, và không tiến được vào căn
cứ của nghĩa quân. Mấy tháng sau, cụ Phan Đình Phùng qua đời vì bệnh kiết lỵ. 
Sau cái chết của cụ Phan, nghĩa quân Văn thân như rắn mất đầu. Do đó, Nguyễn
Thân và Ngô Đình Khả mới mạnh bạo xua quân tiến vào đánh tan lực lượng nghĩa
quân,  cho người đào mả cụ Phan Đình Phùng lấy xác đốt thành tro, lấy tro trộn
vào thuốc súng rồi bắn xuống sông Lam Giang để trả thù cho những thất bại trước
đó. Nhờ chiến công và hành động dã man này, Liên Minh Pháp – Vatican  cho ông
lên làm đến chức “” tương đương với hàng “”. Năm 1905, ông lại được Liên Minh giặc Pháp – Vatican cho nắm giữ
chức Surintendent de Palais (Tổng Quản Cấm Thành) và giao cho ông  nhiệm vụ theo
dõi Vua Thành Thái.  Nhiệm vụ của ông Ngô Đình Khả phải  theo dõi ông vua gỗ
Thành Thái được ông Lữ Giang ghi lại trong cuốn   Quyển I với nguyên văn như sau:

.”[v]

Thành Thái là một ông vua bất xứng phạm tội lọan luân. Vấn
đề này được sách Việt Sử Khảo Luận ghi nhận như sau:

[vi] 

Nhờ địa vị quan tước của thân phụ, ông Diệm được phong “tập
ấm” và được cho vào học tại trường đạo Pellerin ở Huế, rồi lại được đặc cách
đưa vào học trường Hậu Bổ
cũng ở Huế. Năm 1922, ngay khi vừa hoàn tất chương
trình học tại trường Hậu Bổ, ông Diệm được bổ nhậm làm tri huyện. Nhiệm sở đầu
tiên là huyện Hải Lăng (Quảng Trị).

Kẻ từ đó,  ông đem hết tài năng, trí óc, tìm mưu tính kế,
làm đủ mọi cách tâng công và chạy chọt với quan thày để leo lên nấc thang quyền
lực.  Kết quả là mấy năm sau ông được thăng lên chức tri phủ phủ Hoa Đa (Bình
Thuận),  ít lâu sau lại được thăng lên chức Tuần Vũ tỉnh Bình Thuận. Trong thời
gian này, để tâng công với quan thày, ông Diệm đã làm những việc vô cùng dã man
với những quái chiêu cực kỳ độc ác trong những hành động hành hạ nhân dân trong
vùng ông trị nhậm và tra tấn các nhà cách mạng chẳng may lọt vào tay ông. Sự
kiện này được cụ An Khê Nguyễn Bính Thinh ghi lại như sau:

“. .”[vii]

Đoạn văn sử trên đây cho chúng ta thấy rằng những thằng
Việt gian làm quan trong thời bảo hộ 1885-1945 ác độc và tàn ngược hơn cả chính
những thằng Tây đối xử với dân ta.

Do những hành động tàn ác và dã man trên đây, quan thày
người Pháp rất thương yêu ông. Nhờ vậy mà năm 1933, ông được đưa về triều đình
bù nhìn Huế cho giữ chức Thượng Thư Bộ Lại. Chức vụ này được coi như cao trọng
nhất trong triều đình bù nhìn Huế lúc bấy giờ. Nhưng cũng chính cái địa vi cao
trọng này đã làm cho ông bắt đầu lao đao kể từ đây. Nguyên nhân như sau:

Vì cùng có tham vọng  đánh chiếm và thống trị Việt Nam để
cùng cướp đoạt tài nguyên và cùng cưỡng bách nhân dân ta làm nô lệ cho chúng,
hai thế lực vatican và thực dân Pháp mới liên kết với nhau thành Liên Minh Pháp
– Vatican. Như vậy là hai thế lực Pháp và Vatican liên kết với nhau vì quyền lợi
bất chính. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng những kẻ vì quyền lợi bất chính mà tụ
lại với nhau, thì sớm muộn cũng vì quyền lợi bất chính đó mà chúng trở thành
tương tranh thanh toán lẫn nhau để  độc chiếm quyền lực và quyền lợi. Đây là một
quy luật lích sử.  Liên Minh Pháp – Vatican đánh chiếm và thống trị Đông Dương
trong những năm 1858-1954 cũng không thoát khỏi quy luật lịch sử này.

Một yêu tố khác cũng không kém phần quan trọng làm cho hai
thế lực này luôn luôn ở vào tình trạng lủng củng. Nguyên do vì nhân dân Pháp  đã
từng là nạn nhân của Giáo Hội La Mã cả hơn một ngàn năm và đã phải giẫy dụa cả
một thời gian dài từ cuối thế kỷ 8 [thời vua Charlemagne (768-814)] cho đến khi
Cách Mạng bùng nổ vào năm 1789 mới có thể vùng lên đối đầu với Giáo Hội bằng
những biện pháp mạnh để đòi lại quyền làm người.  (Vấn đề này sẽ được trình bày
đầy đủ ở Phần VII). Trước khi Cách Mạng 1789 bùng nổ,  các bậc trí giả Âu Châu
luôn luôn viết sách, viết báo lên án Giáo Hội bằng những lời lẽ vô cùng gay gắt.
Trong số những bậc trí giả đưa ra quan điểm tôn giáo và chính trị chống lại Giáo
Hội, có rất nhiều danh nhân như John Wycliffe (1320-1384), John Huss
(1372-1415), Giordano Bruno (1548-1600), John Locke (1632-1704), Montesqiueu
(1689-1775), Denis Diderot (1713-1784), Jean Jacques Rousseau (1712-1778),
Voltaire (1694-1778). Sau thời Cách Mạng 1789,  cũng vẫn còn có nhiều học giả Âu
Mỹ tiếp tục viết sách, viết báo, diễn thuyết trình bày những quan điểm chính trị
chống lại Giáo Hội hết sức mãnh liệt. Trong số những người này, có những nhân
vật nổi tiếng như Lamartine (1790-1869), Victor Hugo (1802-1885), Léon Gambetta,
Jules Ferry, Thomas Paine (1737-1809), Thomas Jefferson (1743-1826), v.v…

Theo chân các nhà trí thức trên đây,  các nhà trí thức sau
này miệt mài nghiên cứu cả hai bộ Cựu và Tân Ước Kinh, tìm đọc lịch sử thế giới
và lịch sử Giáo Hội La Mã, tìm hiểu những việc làm tội ác của Giáo Hội, tìm hiểu
đời sống bê bối thối tha của các giáo hoàng và các ông chức sắc cao cấp tai giáo
triều Vatican cũng như các giám mục và linh mục tại các địa phương, tìm đọc
những tài liệu nói về những vụ các ngài thanh toán tàn sát lẫn nhau để tranh
giành ngôi vị giáo hoàng và quyền lực. Sau đó, họ biên soạn thành những tác phẩm
như The Decline and Fall of The Roman Church, the Jesuits, Rich Church, Poor 
của giáo sĩ Malachi Martin, Vietnam Why did we Go? và The Vatican’s Holocaust
của giáo sĩ Avro Manhattan,  The Thick Darkness of Romanism của Tiến-sĩ Barnado,
In Vatican: The Politics and Organization of the Roman Catholic Church của
Thomas J. Reese, The Vatican’s Last Crime của Joseph McCabe, Roman Catholicism
của Loraine Boettner, The Vicar Of Christ của Peter de Rosa, The Dark Side of
Christian History của Hellen Ellerbe, The Babylon Mystery Religion của  Ralph
Woodrow, Deceptions and Myths of The Bible của Lloyd M. Graham, The Book Your
Church Doesn’t Want You To Read  của Tim C.. Leedom.  Đặc biệt nhất là Thomas
Paine  viết cuốn The Age of Reason trong đó ông đem Cựu Ước và Tân Ước Kinh ra
phân tách rất là công phu, rồi đưa ra những luận cứ bất khả phản bác về tính
cách hoang đường của hai bộ thánh kinh này. Sau đó, lại có triết gia Bertrand 
Russell viết cuốn Why I Am Not A Christian cũng không ngoài mục đích nói cho
người đời biết rõ về những sai lầm căn bản của lý thuyết thần học Thiên Chúa
Giáo.

Những tác phẩm này  đã ảnh hưởng rất lớn đến tư duy và hành
động của nhân dân Âu Châu và nhân dân thế giới, khiến cho tinh thần chống Giáo
Hội càng ngày càng trở nên mãnh liệt, rồi bùng nổ thành các phong trào chống lại
Giáo Hội.  Phong trào cách mạng chống Giáo Hội mãnh liệt nhất bùng nổ ở Đức vào
năm 1517 do Martin Luther (1483-1546) chủ xướng. Phong trào này trở thành  Phong
Trào Tin Lành lan rộng gần khắp Trung Âu và Bắc Âu, gây nên những cuộc chiến
tranh tôn giáo giữa Tin Lành và Da-tô La Mã, kéo dài trong nhiều chục năm. Cho
đến ngày nay, ở Ái Nhĩ Lan, tình trạng căng thẳng giữa những người theo đạo Tin
Lành và những người theo đạo Da-tô La Mã vẫn còn nguyên vẹn như mấy trăm năm về
trước.

Giậu đổ bìm leo. Năm 1534, chính quyền Anh trong thời Anh
Hoàng Henry VIII (1491-1547), chống lại Vatican, ly khai khỏi Giáo Hội, thành
lập Anh Giáo, rồi tịch thu toàn bộ tài sản của Vatican tại Anh Quốc. Năm 1691,
Quốc Hội Anh lại ban hành một đạo luật, cấm không cho người Anh theo đạo Da-tô
La Mã được  lên cầm quyền. Kể từ đó, không có một người Anh theo đạo Da-tô La Mã
(Catholic) nào được đưa lên cầm quyền. 

Năm 1789,  Cách Mạng Pháp bùng nổ. Các nhà lãnh đạo cách
mạng Pháp thường tự nhận là đứa con tinh thần của Voltaire, người đã gọi đại
Ki-tô La Mã là “cái tôn giáo ác ôn”. Giống như vết dầu loang, Cách Mạng Pháp
1789 trở thành tấm gương cho nhân dân thế giới theo đó mà tiến lên hành động
chống lại Giáo Hội La Mã. Ý Đại Lợi, Tây Ban Nha, Tiệp Khắc, Nhật Bản, Trung
Hoa, nhân dân các quốc gia Mỹ Châu La-tinh như Mễ Tây Cơ, Cuba, Nicaguara, và
nhiều nơi khác lần lượt nổi lên chống lại Giáo Hội. Có thể nói rằng, ở  bất cứ
nơi nào có quyền lực của Giáo Hội vươn tới, nhân dân nơi đó nổi lên chống Giáo
Hội và chống hết sức mãnh liệt. Do đó, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi
thấy rằng dù là nước Pháp liên kết với Giáo Hội La Mã xuất quân đánh chiếm và
thống trị Việt Nam vào giữa thế kỷ 19, mà những  chính khách có thế lực cầm
quyền ở Pháp cũng như ở Đông Dương, vẫn chống  Vatican, vẫn khinh rẻ bọn giáo sĩ
Pháp và tín đồ Da-tô người Việt bất kể là trong thực tế và bề ngoài, họ vẫn liên
kết với Vatican như là một Liên Minh để cùng thống trị Đông Dương.

Vatican cũng biết như vậy,  nhưng Vatican vẫn còn hy vọng
bám lấy quyền lực ở Pháp vì có một nhóm thiểu số tín đồ người Pháp chỉ biết
tuyệt đối tuân phục Vatican và vì bọn phản động thân Vatican còn nắm quyền tại
các nước Áo, Phổ, Nga và Anh. Nhờ đó,   Giáo Hội đã sử dụng nhóm thiểu số tín đồ
cuồng tín người Pháp này và liên kết với các chính quyền phản động tại các quốc
gia trên đây chống lại Cách Mạng 1789 và nước Pháp. Chính vì thế mà cuộc chiến
của nhân dân Pháp chống lại Vatican ở vào thế giằng co cho mãi tới năm 1905,
người Pháp mới có thể thực sự loại được bàn tay quyền lực của Vatican ra khỏi
chính quyền bằng cách ghi vào trong Hiến Pháp điều khoản “.” Trong khi đó, tại Bắc Mỹ, Hoa Kỳ đã đưa điều
khỏan này vào Hiến Pháp ngay từ năm 1791. Kể từ đó,  càng ngày ảnh hưởng
của Giáo Hội đối với quần chúng Pháp càng ngày càng giảm thiểu. Hiện nay ở Pháp
cũng như ở Anh và ở nhiều quốc gia Âu Châu khác,  con số người đi nhà thờ hàng
tuần chỉ còn từ 1% đến 5% là nhiều. Tuyệt đại đa số nhân dân Âu Châu ghê tởm
Giáo Hội và lánh xa Giáo Hội như lánh hủi. Sự kiện này được sách sử ghi lại như
sau:

[viii]

Vì nguyên nhân này mà trong thời gian từ năm 1858 cho đến
1945, có rất nhiều nhân vật Pháp có thế lực ở chính quốc Pháp như Jules Ferry,
Léon Gambetta, Léon Blum cũng như các tướng lãnh chỉ huy các đạo quân tấn chiếm
Việt Nam như Đô Đốc Page, Đô Đốc Bonard, Đô Đốc Rieunier, Đại Tá Bernard cho đến
các chính trị gia nắm quyền chủ chốt trong bộ máy cai trị Đông Dương như Paul
Beau, Paul Bert,  Pierre Pasquier, v.v… đều là những người hăng say chống Giáo
Hội La Mã quyết liệt và thường tỏ ra khinh rẻ các ông tu sĩ Da-tô hoạt động tại
Đông Dương vào thời bấy giờ.  Sự kiện này được sách Các Vua Cuối Nhà Nguyễn –
Tập 2 ghi nhận như sau:

Cũng nên biết là hai thế lực Pháp và Vatican đều có những
bọn Việt gian làm tay sai thân tín đắc lực riêng . Cả hai thế lực này đều muốn
sử dụng bọn Việt gian này trong chính sách  Chia Để Trị. (Dùng người Việt đánh
người Việt và dùng người Việt cai trị người Việt.) Phần lớn bọn Việt gian làm
tay sai cho thực dân Pháp không phải là tín đồ Da-tô và có thể là mang quốc tịch
Pháp như Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Xuân, v.v… hay không mang quốc
tịch Pháp như bọn Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân, Hoàng Trọng Phu, Hoàng Gia Mô,
Nguyễn Duy Hàn, Phạm Quỳnh,  v.v… Hầu hết những bọn Việt gian  làm tay sai cho
Vatican là những tín đồ Da-tô cuồng tín mang quốc tịch Vatican (đều có tên thánh
ở trước cái tên bình thường của chúng) như bọn Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương (Đỗ
Hữu Vị), Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ), Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Hữu Độ, Trần Lục, Pétrus
Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Tường Tộ, Ngô Đình Khả, Lê Hoan, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình
Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn, v.v…

Khi hai thế lực Pháp và Vatican không có chuyện gì xích
mích với nhau thì hai nhóm Việt gian này được yên ổn lo việc đàn áp nhân dân ta
để tãng công, lấy lòng quan thày giặc với hy vọng sẽ được thăng quan tiến chức
vù vù như trường hợp Trần Lục, Ngô Đình Khả, Trần Bá Lộc, Ngô Đình Đình Diệm,
Nguyễn Bá Tòng, v.v… Nhưng khi hai thế lực Pháp  và Vatican mưu tính chèn ép
lẫn nhau để lấn quyền rồi hục hặc với nhau, thì hai nhóm Việt gian này rơi vào
tình trạng khốn đốn và chìm nổi với chủ riêng của chúng. Sự kiện này được Cụ
Phan Bá Kỳ nói sơ qua như sau:

Chuyện tranh chấp giữa ông Ngô Đình Diệm và ông Phạm Quỳnh
về chức vụ Tổng Lý Đại Thần tại triều đình Huế được cụ Nguyễn Bính Thinh ghi lại
như sau:

“.”
[xi]

Theo sử gia Vũ Ngự Chiêu, Không phải ông Diệm từ quan, mà
là bị bãi chức và bị truất hết cả những chức tước phẩm hàm. Hơn nữa, ông ta còn
bị trục xuất khỏi Huế, bị cho ra cư trú ở Quảng Bình. Dưới đây là bản văn của 
Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu viết về sự kiện này:

,…”[xii]

Chiến dịch “” là do Vatican
chủ mưu, mượn bọn tay sai Việt gian cuồng tín để làm áp lực  cho việc đòi thay
thế những nhân vật có tinh thần chống Giáo Hội La Mã bằng những nhân vật bảo thủ
thân Giáo Hội La Mã. Trước đây Ngô Đình Khả cũng vì cuồng tín nghe theo Vatican
mà mất chức. Bây giờ đến lượt Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Diệm, và sau đó là Ngô
Đình Khôi cũng ở vào tình trạng này. Chúng ta đừng quên rằng Cường Để cũng là
người mang quốc tịch Vatican (đã theo đạo Da-tô).

Đến đây, thiết tưởng độc giả đã có thể hiểu tại sao mà bọn
Việt gian làm tay sai tai mắt đắc lực cho Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican như
bọn Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, v.v… không những
bị cho về vườn, mà còn bị đám quan thày người Pháp khinh rẻ như những phường
phản phúc hèn hạ và những quân lưu manh vô lại. Bản văn sử dưới đây nói lên thực
trạng này:

…”

[xiii] 

Từ năm 1931, Nhật bành trướng thế lực vào lục đia Á Châu.
Tháng 7 năm 1937,  Nhật gây hấn tấn công và chiếm đóng các vùng ven biển Thái
Bình Dương của Trung Hoa, rồi năm 1940 Nhật cưỡng bách Liên Minh Pháp – Vatican
để cho Nhật đưa quân vào trú đóng ở Đông Dương.

Từ đó cho đến khi xẩy ra vụ Trân Châu Cảng vào ngày
7/12/1941, đúng ra là cho đến năm 1942, thế lực Nhật ngày càng trở nên hùng mạnh
ở Đông Á và Đông Nam Á Châu. Đồng minh của Nhật ở Âu Châu là Đức Quốc Xã và Phát
Xít Ý (Phe Trục) cũng đang thắng thế  chiếm gần trọn Tây Âu và Nam Âu. Tại Âu
Châu, Vatican quay ra kết thân với Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý để củng cố chế độ
đạo phiệt Da-tô  Francisco Franco (1892-1975) ở Tây Ban Nha, và đưa tên Da-tô
cuồng tín Ante Pavelịch lên cầm quyền, thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô tại
Croatia.

Cũng nên biết vào năm 1936, Tây Ban Nha xẩy ra cuộc nội
chiến. Lúc đó, Tây Ban Nha đã có một chính quyền dân chủ do ông Casares Quiroga
làm thủ tướng. Với tinh thần bảo thủ và suy tôn Vatican, ông Tướng Da-tô
Francisco Franco chống lại chính quyền dân chủ của Thủ Tướng Casares Quiroga  và
được Tòa Thánh Vatican hậu thuẫn. Việc làm này của Tướng Franco làmn cho Tây Ban
Nha rơi vào tình trạng nội chiến. Cuộc chiến này chính thức bùng nổ vào ngày
17/7/1936, kéo dài gần 3 năm trời. Nhờ có Vatican tích cực vận động Đức Quốc Xã
và Phát Xít Ý viện trợ, phe Tướng Da-tô Francisco Franco thắng thế và cuộc chiến
chấm dứt vào ngày 1/4/1939, để lại không biết bao nhiêu đắng cay, căm phẫn, và
thù hận trong lòng người dân Tây Ban Nha đối với Vatican. Trong thời gian chiến
tranh, hàng ngàn nam nữ tu sĩ Da-tô Tây Ban Nha bị phe dân chủ thẳng tay nghiêm
trị cho về nước Chúa vì họ đã tích cực tham gia hoạt đồng tiếp tay cho phe Tướng
Da-tô Franco, giống như  nhóm thiểu số tu sĩ và tín đồ Da-tô Việt Nam tích cực
tiếp tay cho quân giặc xâm lăng Pháp-Vatican trong nửa sau thế kỷ 19 và trong
thời Kháng Chiến 1945-1954. Con số người bị nghiêm trị lên đến hàng ngàn. Đối
với nhân dân Tây Ban Nha, bọn người bị nghiêm trị này là những quân phản quốc và
phản dân tộc. Nhưng đối với Tòa Thánh Vatican, hạng người vong bản phản quốc này
lại là những “thánh tử đạo”. Cũng vì thế mà trước đây, một số trong những “thánh
tử đạo” này đã được Giáo Hoàng John Paul II phong chân phước và phong thánh.
Ngày 28/10/2007, lại có thêm 498 nam nữ tu sĩ  “thánh tử đạo”  khác nữa cũng nằm
trong số người bị nghiêm trị này được Giáo Hoàng Benedict XVI phong chân phước.
Việc phong chân phước này được tờ The News Tribune Tacoma Thứ Hai, 28/10/2007
loan tin với nguyên văn như sau:

“.” Nguyên văn: ““Pope beatifies 498 priests, nuns who died in
Spanish’s Civil  War. Bitter memories of Spain’s Civil War were the center stage
here on Sunday (Oct. 28/2007) as the Vatican put 498 slain Spanish priests and
nuns from that divisive era on the path to sainthood.The Mass recognizing the
Catholic men and women killed around the time of the 1936-39 Civil War was the
largest beatification ceremony in church history… However the beatifications
have stirred controversy in Spain, where critics accuse the Vatican of playing
politics by promoting recognition of one side of the war protagonist. – Los
Angeles Times.”[xiv] 

Tại Á Châu,  Giáo Hội ra lệnh cho bọn tu sĩ kêu gọi tin đồ
Da-tô người Việt triệt để ủng hộ con bài phòng hờ của Giáo Hội là ông Da-tô
Cường Để đang sống lưu vong ở Nhật và đang cầu xin Nhật đưa về Việt Nam thay thế
Bảo Đại làm vua gỗ tại triều đình bù nhìn Huế. Sự kiên bọn tu sĩ Da-tô kêu gọi 
giáo dân ủng hộ Cường Để được sử gia Vũ Ngự Chiêu ghi lại trong bài viết  “Sự
Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ “Trung Quân” sang “Ái Quốc” với nguyên
văn như sau:

“.”[xv]

Trong những giáo mục (tu sĩ) và giáo dân ủng hộ ông Da-tô
Cường Để, ông vua đón gió trở cờ Ngô Đình Diệm là người đi hàng đầu và được coi
như lãnh tụ của Phong Trào Cường Để ở trong nước. Tại Việt Nam, từ đầu thập niên
1930, có một số người Việt Nam xính hơi cố gắng học tiếng Nhật, rồi làm việc hay
hoạt động (chính trị) và làm tay sai cho Nhật  Trong những năm 1940-1945, trong
gia đình họ Ngô, không phải chỉ có một mình Ngô Đình Diệm làm tay sai cho Nhật
mà có cả người anh của ông ta là Ngô Đình Khôi (người anh cả) và đứa con trai
của Ngô Đình Khôi là Ngô Đình Huân cũng hoạt động làm tay sai cho Nhật. Ngô Đình
Huân làm mật vụ cho Nhật và được Nhật cho “” Hoàng Ngọc Thành & Thân Thi Nhân Đức,  (San Jose, CA: Quang Vinh & Kim Loan & Quang
Hiếu, 1994), tr 24.

Nhật  chống Pháp.  Làm việc hay hoạt động làm tay sai cho
Nhật tức  là chống Pháp. Vì lẽ này, anh em Ngô Đình Diệm mới bị Pháp bắt giam,
và vì thế mới có chuyện Giám-mục Ngô Đình Thục viết lá thư đề ngày 21/8/1944 gửi
Toàn Quyền Jean Decoux đẽ xin miễn tội chống Pháp (phản chủ) của Ngô Đình Khôi
và Ngô Đình Diệm. Dưới đây là nguyên văn lá thư này:

Ký tên: Ngô Đình Thục.”
[xvi]

Độc giả có thể tìm đọc bản gốc bằng tiếng Pháp ở trong tác
phẩm này nơi trang 1042, và cũng có thể tìm đọc cả bản gốc và bản dịch trong tạp
chí Lên Đường, số Ra Mắt ở Houston, Texas và nhiều sách khác.

Thời gian từ chiều tối ngày 9/3/1945   (khi xẩy ra biến cố
Nhật đảo chính Pháp) cho đến ngày17/4/1945,  Ngô Đình Diệm cho rằng chắc chắn là
Nhật sẽ đưa ông Da-tô Cường Để về Việt Nam thay Bảo Đại và nôn nóng ngóng trông
được Nhật đưa lên làm thủ tướng trong cái chính phủ bù nhìn mới do Nhật sắp xếp.
Lúc đó, Diệm cư ngụ ở Sàigòn. Có thể vì viên Khâm Sứ đại diện Tòa Thánh Vatican
ở Huế là Tổng Giám Mục Antoni Drapier đã rỉ tai với Bảo Đại là phải nên cho mời
Ngô Đình Diệm về Huế để thành lập tân nội các thân Nhật,  cho nên ông vua gỗ
“playboy” này mới sai ông Phạm Khắc Hòe soạn thảo một bức điện tín, rồi nhờ ông
Đại Sứ Nhật Yokoyama (ở Huế) đánh điện mời Diệm về Huế để thành lập tân chính
phủ thân Nhật.

Thế nhưng, người Nhật vốn đã có kinh nghiệm máu với Giáo
Hội La Mã trong thế kỷ 17 ở ngay chính quốc Nhật (sẽ được trình bày đầy đủ trong
một chương sách nằm trong Muc XVI, Phần VII của bộ sách này), cho nên họ không
đưa ông Da-tô Cường Để về Việt Nam thay thế Bảo Đại và cũng  không sử dụng ông
Da-tô Ngô Đình Diệm làm thủ tướng dù là vẫn giữ ông Bảo Đại làm vua bù nhìn để
cho họ sai khiến, bất kể là chính ông Bảo Đại đã nhờ họ triệu ông Diệm về Huế để
trao cho nắm giữ chức thủ tướng. Vì vậy mà ông đại sứ Nhật Yokoyama  tuy bề
ngoài tỏ ra sốt sắng nhận lời chuyển bức điện tín của Bảo Đại cho Ngô Đình Diêm,
nhưng lại cố tình ỉm đi, và mời cụ Trần Trọng Kim đứng ra thành lập tân chính
phủ. Sự kiện này  được ông Phạm Khắc Hòe, Đổng Lý Văn Phòng của Bảo Đại vào lúc
đó, kể lại, và chính cựu hoàng Bảo Đại cũng ghi lại như vậy trong sách hồi ký
của ông. Sách Việt Sử Khảo Luận Cuốn 4 ghi lại lời ông Phạm Khắc Hòe kể lại
trong cuốn hồi Ký Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc  như sau:

.”[xvii]

Trong cuốn sách Con Rồng Việt Nam, ông Bảo Đại viết nơi
trang 165 như sau:

[xviii]

Xin xem thêm các trang 1949-1951 trong sách Việt Sử Khảo
Luận – Cuốn 4 để biết rõ nỗi lòng thất vọng của ông Diệm khi hay tin người Nhật
bỏ rơi.

Sau ngày Cách Mạng 19/8/1945,  Ngô Đình Diệm vẫn ở Sàigòn.
Tháng 6/1946, Diệm bí mật tìm đường trở về Huế, dọc đường, ghé Tuy Hòa và nghỉ
đêm tại nhà Cha Độ, bị Việt Minh bắt đưa ra Bắc để giao cho chính quyền trung
ương xử lý. Cũng nên biết là vào thời điểm này,  chính quyền Việt Nam (Việt
Minh) đang cố gắng làm hòa với Pháp không muốn gây căng thẳng với Giáo Hội La Mã
và giới tu sĩ Da-tô tại Việt Nam. Lý do là Cụ Hồ và phái đoàn Việt Nam còn ở
nước Pháp và đang chuẩn bị thương thuyết với Pháp,  và ở Bắc, Việt Minh đang
phải dồn nỗ lực vào việc đối phó với Việt Quốc và Việt Cách, cho nên khi thấy
Giám-muc Lê Hữu Từ (lúc đó là cố vấn của chính phủ Hồ Chí Minh) đứng ra xin trả
tự do cho ông Diệm, họ không ngần ngại gì mà không trả tự do cho ông ta. Vấn đề
này được tác giả cuốn Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm 1945-1954 viết như sau:

.”[xix]

Bản văn trên đây gồm có hai đọan. Những điều nói trong đoạn
trên  có thể là rất đúng với sự thật. Đoạn văn dưới nói rằng, “ hoàn toàn không đúng với sự thực và chắc chắn là do tác giả cương ẩu
bịa đặt ra. Lý do: trong thời gian này, Cụ Hồ  không có mặt ở Việt Nam. Cụ đã
khởi hành đị Pháp bằng máy bay vào ngày 31/5/1946 do lời mời của chính phủ Pháp
và mãi tới ngày 20/10/1946 Cụ mới về  tới Hải Phòng  bằng tầu thủy. Như vậy thì
làm sao Giám-mục Lê Hữu Từ có thể gặp được Cụ Hồ?

Cái bệnh cương ẩu, bịa đặt, lắt léo, lươn lẹo, không nói
thành có, có nói thành không và nói ngược là bản chất của Giáo Hội La Mã và các
ông văn nô Da-tô. Cái bản chất này  giống như một thứ bệnh ung thư đã ăn sâu vào
xương tủy của họ mà chúng tôi đã trình bày khá đầy đủ trong Chương 11 (Mục IV,
Phần II) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã này và đã được
đưa lên sachhiem.net trong tháng 9/2007 vừa qua.

Trở lại chuyện việc Giám-mục Lê Hữu Từ xin chính quyền Việt
Minh trả tự do cho ông Diệm,  chúng ta biết rằng Tổng Bộ Việt Minh vốn dĩ có
nguyên tắc”. Vậy thì Cụ Hồ chỉ là
người được Tổng Bộ Việt Minh giao cho thi hành những chính sách hay những quyết
định đã có sẵn. Trong trường hợp Cụ Hồ vắng mặt, không ở trong nước như trường
hợp trên đây, thì người được ủy nhiệm thay Cụ Hồ lúc đó là Cụ Huỳnh Thúc Kháng 
cứ việc thi hành theo chỉ thị của Tổng Bộ Việt Minh. Do đó, việc thể theo lời
thỉnh cầu của Giám Mục Lê Hữu Tử trả tự cho cho ông Diệm là do quyết định của
Tổng Bộ Việt Minh.

Lại nói về ông Diệm,  được Việt Minh thả cho về rồi, kể từ
đó cho đến 1950, ông ta lăng xăng xuôi nguợc hết ra Bắc lại vào Nam, hết bay đi
Hồng Không lại trở về Sàigòn để vận động và cổ võ cho con bài Bảo Đại vì Bảo Đại
là con bài do Giáo Hội La Mã chủ xướng. Con bài này được gọi là Giải Pháp Bảo
Đại đã được viên Khâm-sứ đại diện của Tòa Thánh Vatican ở Huế là Tổng Giám Mục
Antoni Drapier đề nghị và công khai tuyên bố vào ngày 28/12/1945. Lời tuyên bố
này được nhà viết sử Cjính Đsạo ghi lại  nơi trang 295 trong cuốnViệt Na,m Niên
Biểu 1929-1975 – Tập A: 1939-1946(Hóu ton, TX: Văn Hóa,  1996), chúng tôi sẽ
trích dẫn ở trong một mục khác ở sau. Nhà viết sử Chính Đạo ghi nhận những hoạt
động của ông Diệm trong thời gian này như sau:

…”[xx]

Nhờ vào đặc tính cuồng tín, tuyệt đối trung thành với
Vatican [đúng như lời ông tuyên bố với các chính khách Hoa Kỳ trong một bữa cơm
chiều tại Khách Sạn Mayflower vào tháng 10 năm 1950 ở  Washington D.C. rằng, “”
[xxi] ông Diệm mới  được Vatican
hết sức tin dùng. Cũng vì thế,  ông mới được Vatican cho người dẫn dắt sang Mỹ
giao cho Hồng Y Spellman lo lót và vận động chính quyền Hoa Kỳ đưa ông về Việt
Nam cầm quyền để làm tay sai cho Vatican trong sứ mệnh tiến hành kế hoạch Ki-tô
hóa Việt Nam theo tinh thân Sắc Chỉ Romanus Pontifex. Sắc chỉ này  được ban hành
vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455) và nội dung của
nó được Linh-mục nói rõ ràng ở trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm.[xxii]

Chuyện ông Diệm được Vatican cho Giám-mục Ngô Đình Thục dẫn
sang Mỹ trao cho Hồng Y Francis Spellman lo chạy chọt với chính giới Hoa Kỳ sử
dụng ảnh hưởng và thế mạnh làm áp lực với cả Pháp lẫn ông Bảo Đại đưa ông ta về
Việt Nam cầm quyền rồi lại  phải củng cố quyền lực và bảo vệ an ninh cho ông ta
đã được trình bày khá đầy đủ trong mấy chương sách trước cũng trong Mục XVII
này.

Lúc đó là vào cuối năm 1950, chính quyền Hoa Kỳ còn đang
bận rộn phải đối phó với cuộc chiến Triều Tiên vừa bùng nổ vào ngày 25/6/1950.
Hơn nữa, lại không có tín đồ Da-tô La Mã nào nắm giữ một chức vụ quan trọng nào
trong chính quyền của Tổng Thống Truman để có tiếng nói nặng ký giúp  Vatican
trong nỗ lực vận động đưa ông Diệm về Việt Nam cầm quyền. Vì vậy mà cả Vatican
và ông Diệm đều không được toại nguyện vào lúc bây giờ (trong mấy năm Tổng Thống
Truman còn tại chức.)

Tuy vậy,  Toà Thánh Vatican vẫn không nản lòng, vẫn ẩn nhẫn
rình chờ cơ hội mới. Đầu năm 1953, chính trường Hoa Kỳ đã xoay chiều. Ngày
20/1/1953, chính quyền Cộng Hòa của Tổng Thống Eisenhower nhậm chức. Trong chính
quyền mới này, có ông Da-tô La Mã John Foster Dules nắm giữ chức vụ Tổng Trưởng
Ngoại Giao, người em của ông là Allen W. Dulles nắm giữ chức vụ Giám Đốc Cơ Quan
Tình Báo Trung Ương (Central Intelligence Agency hay CIA), tại Thượng Viện, có
hai ông Da-tô La Mã là Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy và Thượng Nghị Sĩ  Mike
Mansfield, tại Hạ Viện có ông Dân Biểu Da-tô La Mã Walter Judd, và tại Tối Cao
Pháp Viện có ông  Da-tô La Mã Thẩm Phán William O. Douglas. Thấy rằng có nhiều
tín đồ nắm giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền Hoa Kỳ lúc bấy giờ,  Tòa
Thánh Vatican cho rằng thời cơ đã đến, bèn tích cực vận động cả ở Mỹ và ở Pháp
để đưa ông Diệm về Việt Nam cầm quyền. Sử gia Chính Đạo ghi lại sự kiện này như
sau:

“.”[xxiii]

“Ngày 30/5/1953: .”
[xxiv]

Do áp lực của Hoa Kỳ và của Đảng Da-tô ở Pháp là Phong Trào
Cộng Hòa Bình Dân (MRP) của ông Da-tô Georges Bidault,  ngày 19/6/1954, Quốc
Trưởng Bảo Đại ký Sắc Lệnh 38/QT bổ nhậm ông Ngô Đình Diệm giữ chức vụ thủ tướng
“với toàn quyền quyết định về dân sự lẫn quân sự”. Ngày 24/6/1954, ông đáp máy
bay từ Ba Lê về Sàigòn và chính thức nhậm chức vào ngày 7/7/1954.

Dân tộc Anh đã ghê tởm tín đồ Da-tô, cho nên vào năm 1691,
họ đã ban hành đạo lụât  cấm, không cho một người Anh nào là tín đồ Da-tô La Mã
được lên cầm quyền. Sách Living World History viết rõ đạo luật này quy định
rằng:

“.” Nguyên văn:
“A third measure, the Act of Settlement of 1691, provided that no Roman
Catholic could be ruler of England, automatically excluding the descendants of
James II by his second wife”[xxv]

Kể từ đó,  không một người nào theo đạo Ki-tô La Mã được
đưa lên cầm quyền ở nước Anh và ảnh hưởng Giáo Hội La Mã bị coi như là bị tiêu
diệt hoàn toàn ở Anh quốc, mặc dầu quốc gia này là một nước dân chủ tự do và tôn
trọng quyền tự do tôn giáo của tất cả mọi người dân.

Ấy thế mà vào thời điểm 1954 (so với thời điểm nước Anh ban
hành đạo luật Settlement of 1691 là 263 năm sau, tức là  gần 3 thế kỷ sau), miền
Nam Việt Nam lại bị Vatican và Hoa Kỳ cưỡng bách phải chấp nhận ông Da-tô Ngô
Đình Diệm lên nắm chính quyền. Khốn nạn hơn nữa, là ông Diệm không phải là một
tín đồ Da-tô bình thường như Tổng Thống John F. Kenndy, mà là một tín đồ  Da-tô
siêu cuồng tín. Xin xem tiểu mục nói về đặc tính cuồng tín của ông Diệm ở sau.)

Chủ trương của Hoa Kỳ là duy trì Việt Nam  mãi mãi ở trong
tình trạng chia đôi để biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng ở Đồng Nam Á
Châu, rồi lại cấu kết với Vatican để đưa ông Diệm lên cầm quyền ở miền Nam Việt
Nam với mục đích cùng thống trị miền Nam. Sau khi đưa ông Diệm về Việt Nam cầm
quyền, Hoa Kỳ dồn nỗ lực vào ba những việc chính là:

Thứ nhất là  vận động ngoại giao cho chính quyền
miền Nam. Hồi đó, thế giới đang ở trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, chia làm ba
phe:

A.- Phe thân Tây Phương do Hoa Kỳ lãnh đạo. Phe này còn
được gọi là phe chống Cộng hay Thế giới tự do. Vì thân Hoa Kỳ, cho nên các quốc
gia trong phe này đều cộng nhận chính quyền mỉền Nam.

B.- Phe các nước theo Xã Hội Chủ Nghĩa hay Cộng Sản. Phe
này do Liên Xô chỉ đạo. Tất cả các quốc gia thuộc phe này đều công nhận chính
quyền miền Bắc.

C.- Phe các quốc gia không liên kết. Phe này còn được gọi
lả các quốc gia trung lập hay thế giới thứ ba mà phần lớn là các quốc gia vốn là
cựu thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Hầu hết các quốc gia này nếu không trực
tiếp chịu ảnh hưởng của Mỹ đều công nhận cả hai chính quyền miền Bắc và chính
quyền miền Nam. Trong phe này, quốc gia lớn nhất và có ảnh hưởng quan trọng trên
sân khấu chính trị thế giới là Ấn Độ, kế đến là Nam Dương..

 

Thứ hai là tổ chức lại đạo quân đánh thuê Việt Nam
do Pháp chuyển giao lại để phát triển thành đạo quân hùng mạnh nhất Đông Nam Á
Châu. Kể từ đó, quân đội miền Nam được huấn luyện và tổ chức theo tiêu chuẩn Mỹ,
được trang bị bằng vũ khí Mỹ, quân nhân từ các cấp Đại Tương năm giữ chức vụ
Tổng Tham Mưu Trưởng cho đến người lính binh nhì và phụ cấp vợ con của họ đều do
Mỹ đài thọ, đài thọ  tất cả khoản phí khác để chiến đấu cho quyền lợi của Mỹ, và
đặt dưới quyền chỉ đạo của các cố vấn Mỹ. Do đó, trong quân đội miền Nam mới có
tình trạng các cố vân Mỹ  luôn luôn sát cánh với các sĩ quan chỉ huy trưởng các
đơn vị từ cấp trung đoàn trở lên (có khi ngay ở các đại đội và tiểu đoàn cũng có
các cố vấn Mỹ). Vì vậy:

A.- Mới có chuyện 3 cố vấn Mỹ chết và 8 bị thuơng trong
Trận Ấp Bắc:

Phía VNCH, khoảng 80 binh sĩ chết, 100 bị thương, 3
cố vấn Mỹ chết và 8 bị thương. [Tin chính thức của VNCH: 63 chết, 109 bị
thương]. Xem báo cáo của Trung Tá John P. Vann ngày 9/1/1963: Kennedy Library,
NSF, Vietnam country Series, 1/63)

B.- Anh em ông Diệm muốn mà không thể loại thải hết tất cả
những sĩ quan từ cấp đại úy trở lên mà ông thù ghét, đặc biệt là các sĩ quan đã
từng gia nhập Đảng Con Ó của Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh và đã từng tham dự vào
âm mưu lật đồ ông vào đầu tháng 11 năm 1954  Nói về chuyện này, cựu Đại-tá Phạm 
Văn Liễu kể lại trong cuốn Trả Ta Sông Núi 1 như sau:

.” [xxvii] 

C.- Anh em ông Diêm muốn mà không thể thực hiện được ý đồ
thay hết tất cả các sĩ quan nắm giữ các chức vụ đơn vị trưởng từ cấp đại đội trở
lên bằng sĩ quan tín đồ Da-tô, nhưng cũng đã thực hiện được một số nào đó..

Thứ ba là  để mặc cho anh em ông Diệm và nhóm thiểu
số tu sĩ Da-tô Việt Nam tha hồ tung tác quản lý các công việc nội chính ở miền
Nam Việt Nam, miễn là đừng quá trớn, đừng quá trắng trợn và quá lộ liễu khỉến
cho nhân dân thế giới công phẫn, gây phiến toái và làm mất mặt Hoa Kỳ như trường
hợp bách hại Phật Giáo và đàn áp học sinh, sinh viên vào mùa hè năm 1963 (sẽ nói
ở sau).

Quyền hành sinh tội ác, quyền hành càng cao, tội ác càng
nặng, quyền hành càng nhiều  nắm quyền càng lâu, tội ác  càng chồng chất. Trong
lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ, có  một tín đồ Da-tô lên cầm quyền  và có nhiều
quyền hành như ông Da-tô Ngô Đình Diệm. Cái khốn nạn cho dân miền Nam là ông
Diệm vốn là một tín đồ Da-tô cuồng tín với tất cả ác tính của một tín đồ Da-tô
cuồng tín trong đó có những đặc tính hung dữ, hiếu sát và bạo ngược đối với
những người thuộc các tôn giáo khác. Với thực trạng như vậy,  khi quyền lực đã
lọt vào trong tay, tất nhiên là nó sẽ trở hành những phương tiện cho ông ta biến
những ác tính Da-tô tiềm ẩn trong con người ông ta thành những hành động bạo
ngược bách hại đại khối nhân dân thuộc các tôn giáo khác. Cũng vì thế, ông ta
mới nhắm mắt lao đầu vào việc đẩy mạnh kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân miền Nam bằng
bạo lực và bằng tất cả phương tiện của chính quyền. Hậu quả là hơn 300 ngàn
người dân miền Nam bị tàn sát, hơn nửa triệu người bị tra tấn và cầm tù, Phật
Giáo bị bách hại, học sinh, sinh viên bị truy lùng, bị bắt giam, bị tra tấn và
đánh đập tàn nhẫn.(Sẽ nói rõ nơi  Mục XX ở sau).

Do những việc làm tàn ngược này,  các nhà viết sử mới gọi
ông Diệm là một thứ Spanish Inquisitor, liệt kê ông vào danh sách 100 tên bạo
chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại (như đã nói ở trên), nhân dân thế giới
chỉ trích Hoa Kỳ đã tạo nên và nuôi dưỡng một chế độ độc tài bạo ngược không
khác gì các chế độ đạo phiệt Da-tô Tây Ban Nha trong thời Trung Cổ và chế độ đạo
phiệt Da-tô Ante Pavelich ở Croatia trong những năm 1941-1945. Chính vì vậy mà
nhân dân Hoa Kỳ mới cương quyết đòi hỏi  chính quyền Hoa Kỳ phải có một biện
pháp tích cực để giải thoát cho nhân dân miền Nam Việt Nam cái chế độ bạo ngược
khốn nạn này.

Con dại cái mang. Vì cảm thấy có trách nhiệm đã tạo nên và
nuôi dưỡng cái chế độ đạo phiệt Da-tô tham tàn này,  chính quyền Hoa Kỳ mới ra
lệnh cho Đại Sứ Nolting phải sử dụng tất cả khả năng của một nhà ngoại giao để
thuyết phục, cảnh cáo, răn đe anh em ông Diệm và đòi anh em ông ta phải ngưng
ngay chính sách bách hại Phật Giáo và đàn áp học sinh, sinh viên. Có như vậy thì
mới có thể xoa dịu lòng căm phẫn của nhân dân thế giới đối với Hoa Kỳ. Đồng
thời, Hoa Kỳ cũng nhắc nhở cho anh em ông ta biết rằng nhân dân và chính quyền
Hoa Kỳ không thể chấp nhận được một chính quyền do Hoa Kỳ tạo ra và nuôi dưỡng
lại có thể đi ngược với đường lối của Hoa Kỳ và thi hành những chính sách bạo
trị bách hại Phật giáo như vậy được.

Thế nhưng,  đối với những tín đồ Da-tô, nhất là khi họ đã
có quyền lực, thì việc nói chuyện thay đổi chính sách bách hại Phật Giáo đối với
họ, chỉ là nói chuyện với đầu gối. Chình vì thế mà những lời thuyết phục, răn đe
và cảnh cáo của ông Đại Sứ Hoa Kỳ Nolting chỉ là chuyên nước đổ lá khoai. Thấy
rằng ông Đại-sứ Nolting bất lực,  vào khoảng đầu tháng 8/1963, Tổng Thống
Kennedy liền triệu hồi ông Nolting về nước và gửi ông Henry Cabot Lodge thuộc
loại diều hâu sang thay thế để cảnh cáo anh em ông Diệm.

Vốn là loại tín đồ Da-tô có tất cả những thủ đoạn quay
quắt, lắt léo, lươn lẹo, ăn không nói có và nói ngược giống như Giáo Hội La Mã,
anh em ông Diệm tính kế đặt ông tân Đai Sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge vào tình
trạng  “đã rồi”  bằng cách tối khuya ngày 20/8/1963, ra lệnh cho lực lượng đặc
biệt dưới quyền chỉ huy của tên Đại-tá Da-tô Lế Quang Tung tấn công vào tất cả
các chùa chiền khả nghi ở Sàigòn – Gia Định – Chợ Lớn  để bắt hết tất cả các sư
sãi và Phật tử khả nghi – mà ai cũng đáng nghi cả. Các chủa chiến khả nghi tại
các tỉnh khác trên toàn lãnh thổ miên Nam cũng bị  những đạo quân thập ác tấn
công và càn quét như vậy. Con số nạn nhân bị bắt và bị giam lên đến hàng ngàn
người. Sách Việt Nam Niên Biểu ghi nhận là 1420 người:

“.”[xxviii]

Đồng Thời, chính quyền cũng mở những chiến dịch tổng cản
lùng bắt học sinh và sinh viên vì lúc đó những lớp người trẻ này hàng ngày
thường tụ tập tại các sân trường rồi kéo nhau đi tham dự những cuộc biểu tình
chống lại chính sách bách hại Phật Giáo của chính quyền. Hàng ngàn học sinh ,
sinh viên bị bắt bị đánh đập tàn nhẫn, lớp bị giam, lớp bị đưa đi xuống trại
Huấn Luyện Quang Trung làm lính. Sự kiện này được sách 1945-1965 Việc Từng Ngày
Hai Mươi Năm Qua ghi nhận như sau:


[xxix]

Vào ngày này, người viết, lúc đó là sinh viên năm thứ ba
Trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn, cũng tham dự cuộc biểu tình ở Bùng Binh Saigòn.
Cô Quách Thị Trang bị cảnh sát bắn chết ở đây. Khi bị giải tán,  anh em kéo nhau
chạy đến Trường Luật nằm trên Đường Duy Tân. Tới nơi, chúng tôi thấy anh em sinh
viên đang xúm vào công kêng ông Vũ Văn Mẫu. Khi đó, ông đã cạo đầu để phản đối
chính sách bách hại Phật Giáo của chính quyền.

Những việc làm tàn ngược và dã man này của anh em ông Diệm 
chỉ làm cho ông tân Đại-sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge càng thêm khinh bỉ cái bản chất
cuồng tín và ngu xuẩn của anh em ông Diệm. Trong bức điện tín gửi về Washington,
ông Đại-sứ Cabot Lodge tỏ ra hết sức khinh bỉ anh em nhà Ngô. Dưới đây là nguyên
văn bức điện tín này:

“.”[xxx]

Tuy nhiên, vì vào thời điểm này,  Hoa Kỳ chưa hòa giải với
chính quyền Trung Hoa Lục Địa, miền Nam Việt Nam còn cần cho Hoa Kỳ dùng làm
tiền đốn ở Đông Nam Á để ngăn chặn ảnh hưởng của phong trào Cộng Sản Thế Giới từ
phương Bắc. Cũng vì thế mà Hoa Kỳ không muốn thay ngựa giữa đường. Cho nên, 
Tổng Thống Kennedy mới cử phái đoàn McNamara đến tận Dinh Gia Long vào ngày
29/9/1963 để trực tiếp mặt đối mặt khuyên bảo, răn đe, cảnh cáo và bảo (ra lệnh)
ông Diệm phải hủy bỏ chính sách bách hại Phật Giáo và đàn áp học sinh sinh viên,
thả hết những người đang bị giam giữ, nhận lãnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho những nạn nhân do những việc làm bạo ngược của chính quyền đã gây ra từ ngày
9/5/1963, và dân chủ hóa chính quyền để cho nhân dân Hoa Kỳ và nhân dân thế giới
không còn có lý do chỉ trích và lên án chính quyền Hoa Kỳ được nữa. Có như vậy,
chính quyền Hoa Kỳ mới có thể tiếp tục hậu thuẫn (hiểu ngầm là để cho) ông ở lại
chính quyền.

Thế nhưng, vì quá cuồng tín, ông Diệm đã không nhìn ra
những việc làm tội ác của ông ta, và cũng quến cả chuyện hơn mười năm trước,
chính ông đã được Vatican cho người dẫn đến nước Mỹ thỉnh nhờ Hồng Y Francis
Spellman đưa đi giới thiệu với các nhân vật có thế lực trên sân khấu chính trị
để  cầu xin họ vận động chính quyền Hoa Kỳ đưa ông về Việt Nam cầm quyền. Vì
không nhớ chuyện cũ như vậy, cho nên anh em ông Diệm mới nhất định không nghe
theo những lời khuyên bảo, răn đe và cảnh cáo của Phái Đoàn McNamara. Phái đoàn
này nói với ông bao nhiêu đi nữa thì cũng chỉ là  nước đầu vịt. Chúng ta hãy đọc
những lời do chính ông McNamara kể lại:

Đứng trước thái độ ngoan cố của anh em ông Ngô Đình
Diệm, Hoa Kỳ ở vào thế kẹt. Tình trạng này của Hoa Kỳ, khiến cho người viết nhớ
lại câu ngạn ngữ của người Việt ”. Quả thật, vào lúc đó Hoa Kỳ đã làm thầy thằng ngu Ngô Đình Diệm
đã hơn chín năm trường.

Tệ hơn nữa,  cái bản chất phản trắc của Ngô Đình Diệm lại
trỗi lên khiến cho ông tính kế phản lại ông chủ Hoa Kỳ của ông bằng cách cho Ngô
Đình Nhu đi thương lượng bí mật với đại diện chính quyền miền Bắc là ông Phạm
Hùng ở một địa điểm trong tỉnh Bình Tuy vào mùa xuân năm 1963. Dĩ nhiên là việc
làm phản trắc này đều được Hoa Kỳ biết hết. Từ ngàn xưa, ở bất cứ nơi nào, trong
bất cứ tổ chức hay cộng động nào, những phường phản trắc đều bị người đời khinh
bỉ,  ghê tởm và cần phải khử diệt. Đây là quy luật chính trị và  cách mạng.
Thằng Ngụy Diên phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm cũng không đi ra ngoài
cái quy luật chính trị và cách mạng này.

Cũng nên biết ông Diệm đã từng  phản nước, phản dân tộc,
phản vua Bảo Đại, phản lại người Pháp tức là phản chủ, phản bạn là ông Trần Văn
Lý. Vấn đề này sẽ được trình bày đầy đủ trong một tiểu mục khác ở sau.

Như vậy là việc anh em ông Ngô Đình Diệm đang thực hiện
âm mưu bắt tay với chính quyền Miền Bắc để đuổi Hoa Kỳ ra khỏi Miền Nam Việt
Nam. Có giả thuyết cho rằng sự kiện anh em ông Ngô Đình Diệm bắt tay với chính
quyền Miền Bắc là một sự kiện có thật,  không ai có thể chối cãi, nhưng họ lại
cho rằng đây chỉ là một sách lược của nhà Ngô và cũng có thể là của phe Bảo Thủ
trong Đế Quốc Vatican sử dụng để bắt chẹt (blackmail) Hoa Kỳ với hy vọng Hoa Kỳ
sẽ nhượng bộ, không làm áp lực, đòi chính quyền Ngô Đình Diệm phải thay đổi
chính sách bách hại Phật Giáo, đàn áp học sinh, sinh viên và các thành phần đối
lập về chính trị. Nhưng cả anh em ông Ngô Đình Diệm và phe Bảo Thủ trong Đế Quốc
Vatican có ngờ đâu làm như vậy là dồn Hoa Kỳ vào bước đường cùng, đường cùng
trong cái cảnh đã lỡ  “Làm thày thằng ngu”.

Mỹ như hết nước, cùng đường,

Cùng đường nên phải tính đường khử đi.

Vô kế khả thi, Hoa Kỳ phải bỏ rơi ông ta như bỏ đi một đôi
giầy rách. Hành động này của Hoa Kỳ không khác nào Hoa Kỳ đã để mặc cho quân dân
miền Nam tự do xử trí anh em ông Diệm và băng đảng Cần Lao Công Giáo. Vì thế, cả
ba anh em ông mới phải đền tội trước nhân dân Sàigòn vào sáng sớm ngày 2/11/1963
và ngày 9/5/1964. Đúng là trời cao có mắt. Lưới trời tuy thưa mà khó lọt “Thiên
võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”. 

Ông Ngô Đình Diệm  là một tín đồ Da-tô cuồng tín.  Cuồng
tín là tổng hợp của tất cả những đặc tính ngu, dốt,  thỉển cận và nếu có quyền
lực thì trở nên hung dữ,  bạo ngược và ác độc. Thế nhưng, đối với Giáo Hội La
Mã, tín đồ càng cuồng tín thì càng tốt, được gọi là con chiên ngoan đạo, và càng
khả dụng, vì rằng những hạng người này luôn luôn tỏ ra tuyệt đối trung thành với
Vatican và triệt để thi hành những lệnh truyền của các đấng bề trên của họ. Nói
như thế,  có nghĩa là họ luôn luôn tuân thủ chủ trương tôn giáo chỉ đạo chính
quyền. Cái “” mà nhà văn Da-tô Nguyễn Ngọc Ngạn nêu lên nơi trang 18 trong cuốn Xóm
Đạo chính là chủ trương “” đã được triệt để
thì hành ở miền Nam Việt Nam trong những năm ông Diệm cầm quyền và cả những năm
ông Da-tô Nguyễn Văn Thiệu tại chức.

Chính vì vậy mà anh em ông Diệm  mới hồ hởi tiến hành chính
sách Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo lực và bằng tất cả phường tiện của chính quyền
theo đúng tinh thần Sắc Chỉ Romanus Pontifex như đã nói ở trên. Cũng vì thế mà
Phật Giáo ở miền Nam mới bị bách hại.

Thế nhưng, đối với Hoa Kỳ, việc ông tỏ ra vô cùng hồ hởi
theo đuổi chủ trương “tôn giáo chỉ đạo chính quyền” và triệt để tuân hành những
lệnh truyền của Vatican  một cách hết sức thô bạo như vậy đã trở thành hết
sức phiền toái
cho Hoa Kỳ. Phiền toái ở chỗ Hiến Pháp Hoa Kỳ quy định
rõ ràng rằng”, ấy thế mà
chính quyền của ông Diệm do chính quyền Hoa Kỳ tạo nên và nuôi dưỡng lại thi
hành chủ trương “”.  Phiền toái ở chỗ
là Hoa Kỳ cứ 4 năm lại có cuộc bầu cử để thay đổi người lãnh đạo cơ quan hành
pháp, và mỗi vị tổng thống không được tái cử quá một lần, thì ông Diệm lại chủ
trưởng ở lại ngôi vị tổng thống trọn đời. Phiền toái ở chỗ đối với người
Hoa Kỳ, quyền hành của người lãnh đạo cơ quan hành pháp cũng bị giới hạn bởi
hiến pháp và  bất kỳ người dân Hoa Kỳ nào kể cả tổng thống cũng phải tuân hành 
luật pháp và không được làm  điều gì phi hiến, thì Tổng Thống Diệm lại tuyến ”. Và phiền toái ở chỗ là chính
quyền Hoa Kỳ chỉ có thể hậu thuẫn và bao che cho ông khi 
những việc làm của ông tại Việt Nam không gây phiền toái cho họ, và chính quyền
Hoa Kỳ cũng không thể để cho ông ở lại chính quyền khi ông trở thành cái gai
trước mắt họ. Một khi những việc làm của ông trở thành phiền toái khiến cho dư
luận Hoa Kỳ phải lên tiếng và đặt vấn đề với chính quyền (Hoa Kỳ),  thì họ phải
có hành động đòi hỏi ông phải sửa sai hay thay đổi chính sách cai trị để khỏi
gây phiền toái cho họ nữa. Có như vậy thì họ mới để cho ông tiếp tục làm việc
cho họ.

Vì ít học,  vì cuồng tín về tôn giáo, vì không đọc và không học lịch sử thế
giới, cho nên ông Diệm không hiểu được trào lưu tiến hóa của nhân loại. Tình
trạng này đã làm cho ông trở thành một thứ  “”.
Vì là ếch ngồi đáy giếng,  ông ta không có đủ khả năng nhìn thấy việc ông triệt
để thi hành những lệnh truyền của Giáo Hội La Mã một cách quá thô bạo như vậy đã
gây ra không biết bao nhiêu đau thương khốn khổ cho nhân dân miền Nam. Tình
trạng này  khiến cho nhân dân Hoa Kỳ và nhân dân thế giới vô cùng khinh bỉ ông,
hết sức công phẫn đối với ông và đối với chính quyền Hoa Kỳ (vì đã tạo nên và
nuôi dương chế độ của ông). Nhiên hậu, những việc làm của ông trở thành phiền
toái cho chính quyền Hoa Kỳ.  Cũng vì thế mà ông mới bị quan thày Hoa Kỳ ngoảnh
mặt đi  để cho các vị tướng lãnh chỉ huy cuộc Cách Mạng 1/11/1963 bứt đi cái gai
cho họ, và cũng là giúp cho anh em ông được “”
như ông đã giúp ông Ba Cụt vào ngày 13/7/1956.

Vì ít học, vì cuồng tín về tôn giáo, vì không đọc và không học lịch sử thế giới, cho nên ông Diệm không hiểu được trào lưu tiến hóa của nhân loại. Tình trạng này đã làm cho ông trở thành một thứ “”. Vì là ếch ngồi đáy giếng, ông ta không có đủ khả năng nhìn thấy việc ông triệt để thi hành những lệnh truyền của Giáo Hội La Mã một cách quá thô bạo như vậy đã gây ra không biết bao nhiêu đau thương khốn khổ cho nhân dân miền Nam. Tình trạng này khiến cho nhân dân Hoa Kỳ và nhân dân thế giới vô cùng khinh bỉ ông, hết sức công phẫn đối với ông và đối với chính quyền Hoa Kỳ (vì đã tạo nên và nuôi dương chế độ của ông). Nhiên hậu, những việc làm của ông trở thành phiền toái cho chính quyền Hoa Kỳ. Cũng vì thế mà ông mới bị quan thày Hoa Kỳ ngoảnh mặt đi để cho các vị tướng lãnh chỉ huy cuộc Cách Mạng 1/11/1963 bứt đi cái gai cho họ, và cũng là giúp cho anh em ông được “” như ông đã giúp ông Ba Cụt vào ngày


(Xem tiếp Tại Sao Gọi Ngô Đình Diệm ...)

Chú Thích


[i]

Chính Đạo,  (Houston, TX: Văn
Hóa, 1997), tr. 261.


[ii]
 
Peter de Rosa, Vicars of Christ (Dublin 13, Ireland: Poolbeg Press Ltd,
2000), p. 416..


[iii]

Nguyễn Ngọc Ngạn,  Xóm Đạo (Đông Kinh, Nh?t: Tân Văn, 2003), tr 148.


[iv]

Nguyễn Ngọc Ngạn, Sđd., tr 71


[v]

Lữ Giang,
(Garden Grove, CA: TXB, 1999) tr. 395.


[vi]

Hoàng Cơ Thụy (Paris: Nam Á, 2002),
tr. 1925.


[vii]

Lê Hữu Dản, (Wesminster, CA: Văn Nghệ,
1996), tr. 327.  


[viii]

Nhiều tác giả, Garden Grove, CA:
Giao Điểm, 2000), tr 245-246.


[ix]

Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1884-1945 – Tập 2 (Houston, TX:
Văn Hóa, 2000), tr. 471.


[x]

Nhiều tác giả, (Costa Mesa, CA: VietBooks
Xuất Bản, 1998), tr 219.


[xi]

Lê Hữu Dản, Sđd., tr. 327.


[xii]

Chính Đạo, í (Houston, TX: Văn Hóa,
1997), tr. 262-263.


[xiii]

Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Ở Việt
Nam 1858-1897 (Saint Raphael, Pháp, 1994), tr.101-102.


[xiv]

The New Tribune Tacoma,  Monday, October 29, 2007 – A 3.


[xv]

Vũ Ngự Chiêu.“Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ Trung Quân sang
Ái Quốc.” chuyenluan.net. Tháng 6/2006.


[xvi]

Đỗ Mậu, (Westminster, CA: Văn
Nghệ, 1993), tr. 1043-1044.


[xvii]

Hoàng Cơ Thụy, 4 (Paris: Nam Á, 2002),,
tr. 1948.


[xviii]

Bảo Đại, (Los Alamitos , CA: Xuân Thu, 1990),
tr. 165.


[xix]

Đoàn Độc Thư & Xuân Huy,
(Sàigòn:TXB., 1973), tr.117.


[xx]

Chính Đạo, Sđd., tr. 267-268.


[xxi]

Lê Hữu Dản, (Fremont, CA:
TXB, 1997), tr. 23.  


[xxii]

Trần Tam Tỉnh, (Paris: Sudestasie, 1978),
tr. 14-15.


[xxiii]

Chính Đạo, (Houston, TX: Văn Hóa,
1997),  270.


[xxiv]

Chính Đạo, Sđd., tr.271.


[xxv]

Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, 
(Glenview, Illinois, 1974), p. 398. ,p. 398.


[xxvi]

Chính Đạo,
(Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr.265-6.


[xxvii]

Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi Hồi Ký I (Houston, TX: Văn Hóa, 20000,
tr. 308-310..


[xxviii]

Chính Đạo,
(Houston, TX: Văn Hóa, 200), tr. 322. 


[xxix]

Đoàn Thêm, (Los
Alamitos, CA: Xuân Thu, 1980?), tr. 360.


[xxx]

Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân (San Jose, CA: Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu,
1999) tr. 282.


[xxxi]

Robert McNamara. Sđd., trang 100-101). Xin xem thêm. (Nguyễn Mạnh Quang,
(Houston, TX: Văn
Hóa, 2000), tr.433-444.

 

Những bài viết về Ngô Đình Diệm:



source https://movsa.org/vaticanch63-1b-so-luoc-cuoc-doi-cua-ngo-dinh-diem-nguyen-manh-quang/

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các phương pháp tái chế rác thải nhựa

Lời bài hát Khóc [Đông Nhi] [Lyrics Kèm Hợp Âm]

Giải mã sức hút bền bỉ của phim truyền hình Trung Quốc